Nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh (968 - 980)
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng đế nằm trong quần thể di tích lịch sử văn hóa cố đô Hoa Lư. Ảnh tư liệu
Về sự kiện này, Đại Việt sử ký toàn thư chép rõ: “Năm Mậu Thìn (968). Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”.
Vị trí dựng đặt kinh đô Hoa Lư có diện tích khoảng 300 ha, là vùng đồng chiêm trũng được bao quanh bởi các dãy núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, núi non hiểm trở. Với tầm nhìn của nhà quân sự, Đinh Tiên Hoàng đã triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên để xây thành, đắp lũy, nối liền các khoảng trống giữa các núi thành một hệ thống khép kín. Mặc dù chức năng quân sự được thể hiện rõ trong kiến trúc tự nhiên của kinh thành Hoa Lư, nhưng về cơ bản nó vẫn đảm bảo trọn vẹn chức năng là trung tâm chính trị, văn hóa của vương triều Đinh buổi đầu kiến lập. Kinh đô Hoa Lư do Đinh Tiên Hoàng tổ chức xây dựng là một công trình kiến trúc lớn nhất của đất nước sau ngàn năm Bắc thuộc.
Năm 970, Đinh Tiên Hoàng bỏ việc dùng niên hiệu của các Hoàng đế Trung Hoa, đặt niên hiệu mới là Thái Bình.
Như vậy, với việc xưng đế, đặt quốc hiệu, dựng kinh đô, định niên hiệu, Đinh Tiên Hoàng đã khẳng định nền độc lập, tự chủ của quốc gia Đại Cồ Việt và bắt tay vào xây dựng một mô hình nhà nước với thiết chế mới: Nhà nước quân chủ trung ương tập quyền thống nhất.
- Về tổ chức bộ máy nhà nước: Đinh Tiên Hoàng đã hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý đất nước từ hình thức “Vương quyền”, chuyển sang hình thức “Đế quyền”, với 3 cấp: Triều đình Trung ương - Đạo (trung gian) - Giáp, Xã (cơ sở).
Triều đình Trung ương tại Kinh đô Hoa Lư do Đinh Tiên Hoàng đứng đầu, con trai cả là Đinh Liễn được phong làm Nam Việt Vương, có quyền hành lớn chỉ sau Hoàng đế và được giao đặc trách công việc bang giao. Năm Thái Bình thứ 2 (971), vua bắt đầu quy định cấp bậc văn, võ, tăng đạo. Đến năm 975, quy định áo mũ của các quan văn, võ.
Vua lập cho mình 5 Hoàng hậu, đặt ngôi Thái tử. Sử cũ cho biết, năm 968, sau khi lên ngôi Hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng đã phong tước cho các Hoàng tử và bầy tôi thân cận: Năm 969, nhà vua phong con trưởng là Đinh Liễn làm Nam Việt Vương.. Năm 978, nhà vua lập con nhỏ là Đinh Hạng Lang làm Hoàng Thái tử, phong con thứ là Đinh Toàn làm Vệ Vương.
Nhìn chung, về tổ chức chính quyền Trung ương thời Đinh, từ quan chế, nghi tiết, phần lớn đều phỏng theo các triều đại Đường, Tống của Trung Quốc. Tuy bộ máy hành chính thời Đinh là bộ máy chính quyền quân chủ thời kỳ mới độc lập, tự chủ, nên còn khá sơ sài, đơn giản, chưa thật hoàn bị; nhưng việc củng cố bộ máy chính quyền Nhà nước quân chủ của Đinh Tiên Hoàng đã được lịch sử ghi nhận. Sử gia thế kỷ XIII, Lê Văn Hưu nhận định: “…Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ…”.
Ở các địa phương, vua Đinh chia nước làm nhiều đạo, dưới đạo là giáp và xã. Đến nay, địa bàn của từng đạo và hệ hống quan chức các cấp chính quyền chưa xác định được rõ ràng.
- Về quân đội: Nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh về cơ bản là một nhà nước võ trị. Quân đội thời Đinh đông và mạnh. Điểm nổi bật nhất trong tổ chức quân sự phòng giữ đất nước thời nhà Đinh là tổ chức “Thập đạo quân”.
Năm 971, Đinh Tiên Hoàng phong cho Lê Hoàn giữ chức Thập đạo tướng quân, đứng đầu quân đội. Bên dưới đạo có các loại: Quân, lữ, tốt, ngũ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đinh Tiên Hoàng, năm Thái Bình thứ 5 (974), định ngạch quân 10 đạo, một đạo 10 quân, một quân 10 lữ, một lữ 10 tốt, một tốt 10 ngũ, một ngũ 10 người”. Quân thường trực thời Đinh bắt đầu được trang bị quân phục thống nhất. Binh lính đều đội mũ “Tứ phương bình đinh” (bốn góc vuông, phía trên phẳng) bằng da. Và quân túc vệ đều thích trên trán ba chữ “Thiên tử quân” để phân biệt với các loại quân khác. Quân đội được trang bị các loại bạch khí, kết hợp giữa giáo, kiếm, côn với cung, nỏ…
- Về luật pháp: Cùng với việc từng bước xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương, xây dựng củng cố lực lượng quân sự, nền pháp chế thời kỳ này cũng bắt đầu được để ý đến. Đinh Tiên Hoàng đã đặt chức Đô hộ phủ sĩ sư coi việc hình án - một chức quan tư pháp và giao cho Lưu Cơ giữ chức này. Mặc dù vậy, dưới chế độ võ trị, luật pháp thời Đinh còn nghiêm khắc và tùy tiện, dựa theo ý muốn của nhà vua. Vua Đinh cho đặt vạc dầu và cũi hổ ở sân triều để trừng phạt phạm nhân.
- Về kinh tế: Thời Đinh, kinh tế nông nghiệp được quan tâm. Nhà vua nắm toàn bộ ruộng đất trong nước, vừa để khẳng định quyền lực vừa để nắm lấy thần dân, thu tô thuế, bắt lính. Bên cạnh đó, nhà nước cũng quan tâm tới việc khai hoang, lập làng, mở rộng diện tích canh tác xuống vùng đồng bằng và ven biển.
Một số ngành nghề thủ công nghiệp cũng được chú ý phát triển như: Nghề thợ nề, thợ đá, mộc, chạm khắc, dát vàng bạc… chủ yếu để phục vụ vua quan và quân đội. Trong dân gian, các nghề truyền thống như trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải lụa, làm giấy tiếp tục phát triển.
Khoảng năm 970, Đinh Tiên Hoàng cho phát hành đồng tiền đầu tiên của đất nước: Đồng Thái Bình Hưng Bảo. Sự ra đời của đồng tiền “Thái Bình Hưng Bảo” thúc đẩy việc trao đổi buôn bán hàng hóa trong nhân dân; việc trao đổi buôn bán vật phẩm cũng được thực hiện với Trung Quốc và với các thuyền buôn nước ngoài.
- Về văn hóa: Cùng với việc xây dựng một chính quyền nhà nước có chủ quyền, vua Đinh Tiên Hoàng cũng chú ý đến phát triển văn hóa; những mầm mống đầu tiên của một nền văn hóa mang tính dân tộc được manh nha hình thành.
Đạo Nho tuy đã xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc, nhưng đến lúc này vẫn không tạo được những ảnh hưởng đáng kể. Nổi trội trong đời sống tâm linh vẫn là những tín ngưỡng dân gian hòa trộn với những tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo. Đạo Phật là chỗ dựa tinh thần và có vị trí lớn trong đời sống xã hội Đại Cồ Việt cũng như trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước thời Đinh. Ở Kinh đô Hoa Lư đã xây dựng nhiều chùa chiền (chùa Tháp, chùa Bà Ngô…) và các cột kinh Phật. Nhiều nhà sư đã trở thành cố vấn cho vua Đinh về đường lối đối nội và đối ngoại. Năm 971, vua phong cho Tăng thống Ngô Chân Lưu làm Khuông Việt Đại sư (Khuông Việt nghĩa là phò giúp nước Việt) chứng tỏ các tăng sĩ đã có vai trò rất lớn trong việc phò giúp Đinh Bộ Lĩnh.
Thời kỳ này, nhiều loại hình văn hóa dân gian đã hình thành như ca múa nhạc (thể hiện qua truyền thuyết bà Phạm Thị Trân ở Hồng Châu, tỉnh Hưng Yên dạy quân sĩ hát, đánh trống, được phong chức và được suy tôn là Huyền Nữ, Ưu Bà), một số môn xiếc đã điêu luyện được biểu diễn trên lầu Đại Văn...
- Về đối ngoại: Ngay sau khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng đã quan tâm đến việc thiết lập mối quan hệ bang giao với nhà Tống.
Theo các bộ chính sử của Việt Nam như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tiền biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, vào năm 970, vua sai sứ sang nhà Tống giao hảo. Chuyến đi sứ sang nhà Tống vào năm Thái Bình thứ 1 (970) dưới thời Đinh là chuyến đi sứ đầu tiên, mở đầu quan hệ bang giao giữa Việt Nam với Trung Quốc trong thời kỳ trung đại.
Tiếp đó, năm 972, vua sai con trai cả là Nam Việt Vương Đinh Liễn sang nước Tống, đến năm 973 mới trở về nước. Chuyến đi sứ sang nhà Tống của Đinh Liễn thành công, nên khi Đinh Liễn về nước, vua Tống đã sai sứ đến Kinh đô Hoa Lư phong cho Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, phong Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ.
Năm Thái Bình thứ 6 (975), mùa xuân, Đinh Tiên Hoàng sai Trịnh Tú đem sản vật địa phương gồm vàng, lụa, sừng tê, ngà voi sang nước Tống triều cống. Năm 977, Đinh Tiên Hoàng lại sai sứ sang nhà Tống đem phương vật mừng Tống Thái Tông lên ngôi.
Như vậy, dưới thời Đinh, kể từ năm 970, vua Đinh Tiên Hoàng lần đầu tiên sai sứ sang nhà Tống kết hiếu, đến chuyến đi cuối cùng năm 977, sai sứ sang mừng Tống Thái Tông lên ngôi, trong quan hệ bang giao giữa Đại Cồ Việt và Trung Quốc chưa xảy ra xung đột. Nhà Tống đối với triều Đinh nói chung và vua Đinh Tiên Hoàng nói riêng, đều tỏ ra hữu hảo. Điều này cho thấy, Đinh Tiên Hoàng đã có một chính sách đối ngoại khéo léo, mềm dẻo để giữ gìn hòa bình cho dân tộc.
Theo TS/Baoninhbinh.org.vn/09/03/2018
Bình luận